I. ĐỌC – HIỂU (4.0 điểm): Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới
HAI THẰNG KHỐN NẠN
Năm 1926, nước to, đê vỡ tứ tung, nhân dân bêu rếch, khổ sở. Nhất là khi nước đã ra rồi, trông cảnh tượng mới lại càng đáng ngậm ngùi nữa.
Cỏ tàn khắp cánh đồng xa
Bên làng hoang thủy mấy nhà lơ thơ
Đầu đường mẹ bế con thơ
Người tìm sang Bắc, kẻ đưa về Đoài
Bởi thế, bác Lan luôn mấy tháng, nào nhà đổ, nào trâu chết, nào đất bán, nào ruộng cầm. Gia tài tuy chẳng được là bao, nhưng đến cái cảnh tai bay vạ gió mà sạch sành sanh, thì dẫu ông vua đời xưa mất nước, hay thằng bé bây giờ mất tiền, cái tâm lý cũng đau đớn ngang nhau vậy.
Không những thế, vợ bác lại mới chết về bệnh dịch, để cho bác một đứa con trai mới biết ngồi. Cái cảnh gà sống không còn mồi mà nuôi con mới đáng đau lòng. Bác Lan thực là một thằng khốn nạn vậy.
Đêm hôm trước, bác ngồi nghĩ mà rớt nước mắt. Của chìm của nổi đã không còn gì, nhịn cơm từ sáng nhường con đã lả cả dạ dày. Nếu mai cũng thế này nữa, thì bố chết đói, con chết đói. Âu là trong nhà còn một thứ của nổi nữa, đem bán nốt đi chăng?
Bác Lan nghĩ thế thì làm thế. Bác xin được cái thúng sứt cạp, bện đôi quang và chẻ cái đòn gánh. Sáng sớm, gánh thằng bé con đi. Một bên quang là một tảng gạch để thăng bằng thúng hàng bên kia. Một bên quang là một cái thúng đựng hàng. Trên cái thúng, tùm hum manh chiếu rách che hàng cho đỡ nắng.
Bác đi lang thang làng này, làng khác, qua chợ nọ, chợ kia. Nhưng chỉ thấy có người xem, mà không thấy có người mua.
Bác Lan đói quá, mắt đã mờ. Thằng bé con trần truồng trong thúng, nằm ngả ra, mồm miệng bê bết những dãi, mũi và vỏ khoai lang. Đi đường, bác gặp toàn bọn khóc dở mếu dở như bác cả. An ủi nhau, cũng chỉ có một câu:
- Này, bác đến nhà ông nghị Trinh, may ông ấy hiếm hoi, thì ông ấy mua cho.
Đi lần mãi mấy làng, bác mới đến nhà ông nghị Trinh. Trời đã sắp xẩm tối. Đứng ở cổng, trông vào trong nhà, bác thấy gạch tây đánh bóng lộn, sập gụ, tủ chè, gương đứng, giường tây, thật có vẻ đỉnh chung sung sướng.
Bác Lan đánh liều gọi cổng. Anh bếp ở trong chạy ra.
Nhờ cậu vào bẩm với ông bà rằng có người muốn bán con đương ở cổng.
Cậu bếp hỏi han một vài điều ra dáng tử tế, săn sóc, nhanh nhẹn lắm, rồi mới đi vào.
Bác Lan, vì cái đói khát nó cấp bách quá, nên tưởng tượng ngay độ dăm phút nữa thì bụng sẽ được no đầy. Nhưng tưởng tượng thế là lầm. Độ một giờ sau, bác thấy một người mặt mũi phương phi, cổ rụt, bụng phệ, môi trễ mà không râu, mặc quần áo lụa, phe phẩy cái quạt, ra vườn chơi.
Bác đoán là ông Nghị, bèn đánh tiếng. Thì quả là ông Nghị thực, vì nghe giọng hách dịch lắm:
Sao không giật chuông gọi người nhà nó vào bẩm?
Bác Lan kể nỗi cơ cực, vầ ngỏ ý dạm bán đứa con. Ông Ngị nhìn qua bác, nhìn qua đứa bé, rồi nói:
Ừ, để tôi nói chuyện với bà sẽ hay. Chờ đấy, tôi ra ngay.
Nghe câu ấy, bác Lan tuy trong bụng lép kẹp, nhưng thấy như được no một nửa vậy.
Hơn nửa giờ nữa, ông bà Nghị mới ra.
Bác Lan chào, rồi cũng những câu khi nãy, bác nói với bà Nghị. Bà Nghị ra ý cảm động. bà bế đứa bé vào lòng, ngắm nghía mãi.
Ông Nghị thấy bà có vẻ vừa ý, bèn hỏi giá:
Anh định bán bao nhiêu, nói cho thực.
Bẩm tùy ông bà cho.
Người bán không nói giá, người mua không biết giá, thì làm thế nào? Độc giả các ngài đánh giá hộ đi? Một người như chúng ta đấy, kheo nuôi, khéo dạy, thì chưa biết chừng, vĩ nhân cũng nên đấy. Một trăm nhé! Hai trăm nhé! Năm trăm nhé!
Ông Nghị thấy bác Lan lưỡng lự, không muốn nói giá, đương ngồi xổm ở trước cái thúng, bỗng đứng phắt dậy:
Đáng lẽ anh cho không tôi, tôi cũng không lấy, vì tôi phải nuôi nó cho anh, Nhưng thôi, việc phúc đức, tôi cho anh ba hào, cầm lấy!
Vừa nói, ông vừa móc túi lấy tiền đưa. Bác Lan gãi tai thở dài. Có lẽ không ngờ đâu cái giá trị một thằng bé con có thế mà thô.
- Thưa ông …
- Tôi không nói lôi thôi. Ông với ênh gì! Tôi không quen mặc cả. Ba hào không bán thì thôi!
Nói xong ông quay lưng vào, gọi bà đi, và đóng cổng lại.
Bác Lan vơ vẩn nghĩ ngợi mãi. Chờ mãi cũng không thấy có người ra trẩ thêm xu nào.
Nửa giờ sau, bác không thể nào nhịn nổi được cái dạ dày rỗng tuếch từ hôm trước. Thôi thì ba hào thì ba. Con mình được chỗ ấm no nương tựa, còn hơn là bố con bêu rếch, xó chợ đầu đường. Nghĩ vậy, bác bèn giật chuông. Một lát, ông Nghị ra.
Thế nào? Anh có định bán như thế không mà gọi?
Thôi, lạy ông, ông thương phận nào, con nhờ phận ấy.
Thương là thế nào! Anh nói cho dứt khoát. Bằng lòng bán ba hào không?
Vâng!
Ông Nghị đưa bác vào trong nhà. Làm giấy má xong, ông còn xem xét đứa bé rất kĩ càng. Khi thấy sau lưng nó có nhiều nốt ruồi quá, thì ông có ý không bằng lòng, chê bai mãi rằng xấu. Xấu thì phải bớt tiền, Cho nên khi trả, ông không ban cho cả ba hào, mà phạt hai xu nốt ruồi.
Bác Lan van lạy mãi. Nhưng bác nghĩ, nếu cố nằn nì hai xu, thì chưa chắc đã được, mà không khéo thì bị trả tiền lại. Nghĩ nực cười, mình đã khốn nạn, mà lại gặp phải một thằng khốn nạn hơn nữa, thì thôi, chịu cầm hai hào tám vậy.
Bác bế đứa con lần cuối cùng, hôn hít, dặn dò mãi, mới rứt. Khi ra ngoài cổng, bác đi không nỡ, tình cha con vương vít, bác nghĩ muốn trả lại hai hào tám mà lấy con về.
Bác dừng lại, quay nhìn trong nhà ông Nghị, thì thấy kẻ bưng chậu nước, người lấy xà phòng, người tìm khăn mặt. bà nghị thì tự tay tắm cho đứa bé, ra dáng âu yếm, nâng niu. Bác nhìn mà cũng hả tấm lòng, nỗi đau đớn cũng như tiêu tan vậy.
Còn ông nghị, hai mắt vẫn nhìn cái lưng nốt ruồi, nét mặt còn như tiếc món tiền tiêu vô ích khi nãy. Một chốc, ông ra ý hối hận, nói với vợ:
Bà ạ, hoài của, giá bớt hẳn năm xu, nó cũng phải chịu.
Sao ông nghiệt thế! Tiền hàng vạn lo nghị viên không tiếc, mà mấy xu này lại tiếc hay sao?
Ông Nghị đang tức hơi, phát gắt mà rằng:
- Tiêu những món đáng tiêu thì còn tiếc cái gì! Thằng bếp đâu! Mày chạy đi tìm thằng bán con ban nãy, bảo nó giả tiền tao mà lấy lại con ngay lập tức!
Bác Lan giật nảy mình, co cẳng, ù té chạy bán sống bán chết, vừa chạy vừa đếm:
Một, hai. Một, hai, ba. Bốn, năm, sáu, bảy, tám, …
(Trích Nguyễn Công Hoan, truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn học, 2005)
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên là: (0,25 điểm)
A. Tự sự
B. Biểu cảm
C. Nghị luận
D. Thuyết minh
Câu 2: Văn bản trên thuộc thể loại gì? (0,25 điểm)
A. Văn nghị luận
B. Truyện ngắn hiện đại
C. Truyện trung đại
D. Văn bản thông tin
Câu 3: Câu chuyện được kể chủ yếu từ điểm nhìn nào? (0,5 điểm)
A. Điểm nhìn của nhân vật
B. Điểm nhìn bên ngoài
C. Kết hợp các điểm nhìn
D. Điểm nhìn bên trong
Câu 4: Phát biểu nào sau đây nói về nguyên nhân để nhân vật bác Lan quyết định bán đứa con của mình cho vợ chồng ông Nghị Trinh? (0,5 điểm)
A. Vì thương vợ chồng ông Nghị hiếm muộn
B. Vì bác Lan là đàn ông nên khó nuôi con nhỏ
C. Vì có nhiều người cũng phải bán con
D. Vì hoàn cảnh của bác Lan quá túng quẫn
Câu 5: Qua văn bản, tác giả bộc lộ tình cảm và thái độ như thế nào đối với nhân vật bác Lan? (0,5 điểm)
A. Kính phục, ngưỡng mộ
B. Ngạc nhiên, thán phục
C. Xót thương, đồng cảm
D. Yêu mến, ca ngợi
Câu 6: Xác định và nêu tác dụng của biện pháp tu từ chính được sử dụng trong câu văn: Bởi thế, bác Lan luôn mấy tháng, nào nhà đổ, nào trâu chết, nào đất bán, nào ruộng cầm. (0,5 điểm)
Câu 7: Anh/Chị hiểu như thế nào về ý nghĩa nhan đề Hai thằng khốn nạn? (0,75 điểm)
Câu 8: Sau khi đọc văn bản, anh/chị có hiểu biết gì về hiện thực xã hội nông thôn Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945? (Viết khoảng 5 – 7 dòng để trả lời câu hỏi) (0,75 điểm)
II. LÀM VĂN (6,0 điểm)
1. Nghị luận xã hội (2,0 điểm)
Từ nội dung của văn bản trong phần Đọc – hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (dung lượng khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về đồng tiền trong xã hội ngày nay.
2. Nghị luận văn học (4,0 điểm)
Anh/Chị hãy viết một văn bản trình bày cảm nhận của bản thân về những đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của nhà văn Nguyễn Công Hoan ở tác phẩm Hai thằng khốn nạn.

ThS. Nguyễn Thành Đạt
(Người kiểm duyệt, ra đề)
Chức vụ: Trưởng ban biên soạn môn Ngữ Văn THPT
Trình độ: Thạc sĩ Ngữ Văn, Chứng chỉ hạng II, Chứng chỉ CNTT, Ngoại ngữ B1
Kinh nghiệm: 10+ năm kinh nghiệm tại Trường THPT Hoàng Thế Thiện